Chủ Nhật, 21 tháng 8, 2016

Bữa cơm ăn cùng ớt của học trò và nước mắt cô giáo - Giáo dục

Ngày mới tham gia nghề, cô Cao Thị Nghĩa bật khóc khi nhìn bữa cơm của học sinh chỉ có quả ớt và nước lạnh. Bữa cơm ấy đã thôi thúc cô Nghĩa bám trụ với trường miền núi 13 năm nay.

Những bữa ăn không cá, giết

Trong căn nhà bếp lụp xụp, không có điện, đám sinh viên ngồi vây quanh co nồi cơm. Mỗi đứa tay bốc cơm, tay kia cầm quả ớt đưa tham gia miệng mút, kế đó là ca nước lạnh.

“Tôi nhìn cảnh ấy mà trào nước mắt. Bạn bè trẻ sử dụng ớt để có vị cay kích thích ăn được phổ thông cơm hơn. Cha mẹ đi khiến nương rẫy, trẻ em ở nhà tự nấu một nồi cơm ăn cả ngày", cô Cao Thị Nghĩa (Trường tiểu học Mường Lống I, huyện Kỳ Sơn, tỉnh giấc Nghệ An) tâm tư.

Lúc bấy giờ, trong đầu cô giáo vùng cao hiện ra hai hình ảnh đối nghịch: Lực lượng học sinh đô thị có nhân tố kiện học hành, đời sống vật chất vừa đủ và bè phái trẻ lem nhem trong căn bếp xập xệ.

d
Cô Cao Thị Nghĩa tâm tình về học sinh. Ảnh: Quyên Quyên.

Trong khoảng đó, cô Tình nghĩa nguyện gắn bó vĩnh viễn với trẻ thơ vùng khó khăn. Nữ thầy giáo cho biết, hiện nay, đa phần bữa ăn của sinh viên đã được cải thiện do ở bán trú 2 buổi/tuần, nhưng rộng rãi mái ấm vẫn ăn cơm với ớt và nước lạnh.

San sớt về bữa ăn học trò vùng cao, cô Lê Thị Hằng, người 33 năm giảng dạy tại các trường tiểu học của huyện có điều kiện kinh tế eo hẹp Lang Chánh, Thanh Hóa kể lại: “Lần đầu tiên lên nhận công việc, nhìn sinh viên bốc cơm ăn với muối hạt, tôi đã khóc”.

Rồi cô Hằng trở thành người con trong bản, quen dần với những bữa cơm chỉ có rau ngót. Thi thoảng, “quý phái” hơn là làm thịt, cá ướp muối, bởi nơi đây thiếu nước ngọt, không có ao đại dương.

Cô Hằng kể lại, sinh viên cư dân tộc thường nhịn ăn tới trường. Đa dạng lần các em lả đói trong giờ học, cô giáo phải pha mỳ tôm cho ăn lâm thời. Những khi trời mưa gió, thầy giáo không đi lấy được gạo, dân bản lại san sẻ số ngô, khoai ít oi. Cô giáo gắn bó với thôn bạn dạng qua từng mùa khó khăn tương tự.

Cô Chu Thị Thu Hường (Trường tiểu học Nà Lẩy, huyện Ba Bể, Bắc Kạn) kể lại kỷ niệm sâu sắc trong thế cục gieo con chữ: “Trong ngày thi học kỳ I, buổi trưa các em ở lại trường. Thương học trò quá, tôi cùng bạn đồng nghiệp bắc bếp thổi cơm. Bữa ăn chỉ có bát canh cải nương và ba con mắm mặn. Các em ăn ngon lành, vừa nhai cơm, vừa cười tít mắt”.

Khu vui chơi toàn thầy giáo

Các điểm trường lẻ thuộc vùng khác biệt khó khăn đều không có điện, tuyến phố và sóng laptop. Thầy cô giáo cắm phiên bản đã có phổ biến câu chuyện "cười ra nước mắt".

Giáo viên Nguyễn Hồng Hiệp (quê gốc Hưng Yên) về giảng dạy tại Trường tiểu học T​ri Lễ 4 (thị xã Quế Phong, Nghệ An). Nằm bí quyết xa trung tâm quận hơn 40 km, chưa có các con phố đi, trường của thầy Hiệp có 100% thầy giáo là nam giới (41 người).  

Thầy Hiệp kể, tuyến đường đi chủ đạo do quần chúng. # tự đào, có khúc quanh co theo khung núi, một bên dốc, một bên vực rất nguy nan. Mỗi khi trời mưa bão, trường thường bị phương pháp ly với các vùng khác.

Nhập môd tả cho ảnh
Thầy Hiệp (trước tiên) và đoạn đường đất gian nan. Ảnh: NVCC.

Khoảng 10 năm về trước, dù nơi công tác ở phương pháp xa nhà hơn 40 km, nhưng mỗi năm thầy Hiệp chỉ được về hai lần tham gia thời điểm hè và lễ Tết, bằng cách đi bộ. Hè năm 2004, một người nhà trong gia tộc mất, nhưng phải tới 2 tháng sau khi đi về nhà, thầy mới biết thông tin. Hiện nay, đã có 10 km đường nhựa, giáo viên Hiệp có thể đi về nhà nhiều lần hơn.​

Không chỉ gian khổ về vật chất, những thầy giáo cắm bạn dạng chạm chán phổ biến thiếu thốn về tinh thần. Cô Lò Thị Chiển, Trường măng non Nậm Khăn (huyện Nậm Pồ, tỉnh giấc Điện Biên) san sẻ, ngày mới lên công việc, thầy giáo mỗi tối phải vào nhà dân xin ngủ nhờ.

Không có điện và sóng laptop, cô Chiển kể: “Ở cạnh trường có một cây cao, tôi và đồng nghiệp thường trèo lên hứng sóng. Bản thân mình là người có mái nhà, thỉnh thoảng nhường nhịn cho em lên trước để nói chuyện với người ấy được lâu hơn”.

Thầy giáo học tiếng dân tộc để dạy trò

Buổi đầu tiên lên lớp, cô giáo Cao Thị Nghĩa và học trò bất đồng ngôn ngữ, bởi 100% các em là người H’Mông. Những buổi tiếp theo, cô Nghĩa phát hiện trình độ kiếm được thức của học sinh quá hạn dè bỉu so với yêu cầu thông thường. Mọi nỗ lực hướng dẫn, giảng dạy của cô dường như chơi người nào hiểu.

Lúc muốn bỏ cuộc, cô Nghĩa lại tự an ủi chính mình rằng, với điều kiện sống thiếu thốn như thế, các em sao sản xuất được năng lực đầy đủ.

d
Thầy và trò Trường tiểu học T​ri Lễ 4 (thị xã Quế Phong, Nghệ An).

Thầy Lường Văn Thọ (sinh năm 1988, Trường tiểu học Suối Tọ 2, thị xã Phù Yên ổn, Sơn La) nghĩ rằng, khó khăn của nghề giáo vùng cao thực thụ mở đầu khi thầy giảng bài, trò ngơ ngác. Thuở đầu, thầy Thọ và sinh viên giao thiệp bằng ký hiệu. Để giải quyết gian nan, người thầy đạt yêu cầu và nhập cuộc theo học lớp tiếng H'mông.

Thầy Lò Văn Xuân có thâm niên công việc trên 30 năm tại Trường tiểu học Mường Lèo (phường Mường Lèo, huyện Sốp Cộp tỉnh Sơn La) đã thuần thục luôn các tiếng của dân tộc H' Mông, Khơ mú.

Thầy Xuân đánh giá, thầy giáo ở đây không chỉ giảng dạy mà còn là tuyên truyền viên hăng hái. Bởi người dân nơi đây luôn có quan niệm giống nhau: Sinh con để làm cho nương rẫy, phụ giúp thân phụ mẹ; Sinh con để bế em; Con học hay không là việc của thầy cô…

 Bà Nguyễn Thị Nghĩa, Thứ trưởng GD&ĐT chia sẻ trong buổi chạm mặt 64 thầy giáo cắm bản tiêu biểu: “Khiến giáo dục đã khó khăn, nhưng khiến giáo dục ở vùng sâu, vùng xa còn khó gấp trăm lần. Ở vùng núi, chất lượng cũng là số lượng, các thầy cô duy trì sĩ số lớp học đã là chiến thắng. Yếu tố làm cho nên thắng lợi đó đó chính là tình yêu nghề. Lĩnh vực GD&ĐT thực sự cảm ơn các thầy cô giáo đã và đang bám trụ ở những vùng khó khăn".

Ở nơi 27 học sinh ăn bữa cơm giá trị…18.000 đồng

Giờ ra chơi, đám trẻ ùa về khu nhà bếp, mắt thèm thuồng nhìn tham gia miếng giết, khúc cá trên khay cơm của khách hàng mái nhà có nhân tố kiện hơn. Nỗi thèm khát dễ chơi ấy mãi là giấc mơ.


Có thể bạn quan tâm: xe hoi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét